Hồ sơ mới giải mật: CIA và nhà họ Ngô In
Thứ tư, 15 Tháng 12 2010 16:35

 

 

21/04/2009

“CIA and the House of Ngo” (CIA và nhà họ Ngô) là 1 trong 6 quyển sách của nhà sử học Thomas L. Ahern Jr (cựu điệp viên CIA từng nhiều năm hoạt động tại chiến trường miền Nam Việt Nam) về các hoạt động bí mật của Cục Tình báo trung ương Mỹ (CIA) tại Việt Nam, Lào, Campuchia trong chiến tranh Việt Nam.
Trong loạt bài đầu tiên này, chúng tôi xin trích dịch một số nội dung liên quan đến những mối quan hệ bí mật giữa CIA với anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, những khúc mắc, mâu thuẫn giữa anh em họ Ngô với các quan thầy Mỹ, nguyên nhân, âm mưu của cuộc đảo chính ngày 1/11/1963 và sự sụp đổ của chế độ Diệm - Nhu.
1. "Chọn mặt gửi vàng"
Năm 1951, CIA bắt đầu các hoạt động tại Việt Nam. Nhiệm vụ ban đầu của cơ quan này là hỗ trợ người Pháp duy trì thế trận chống Việt Minh do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Tuy nhiên, đến giai đoạn 1953-1954, người Pháp ngày càng thất thế, nhất là sau trận đại bại trong chiến dịch Điện Biên Phủ (tháng 5/1954) dẫn đến việc ký kết Hiệp định Geneva (tháng 7/1954).
Washington bắt đầu chuẩn bị kế hoạch nhảy vào thay chân Pháp, và nhiệm vụ của CIA là chuyển sang tìm kiếm một nhân vật đủ bản lĩnh để đứng ra xây dựng “thành trì chống Việt Minh” ở miền Nam Việt Nam.
Mối quan hệ giữa anh em Diệm - Nhu với CIA thực ra đã bắt đầu từ khá lâu trước khi ông Diệm lên nắm quyền (tháng 7/1954). Ngay từ khi CIA mới đến Việt Nam, Ngô Đình Nhu là một cầu nối liên hệ cực kỳ quan trọng.
Trong giai đoạn đầu (từ năm 1950 đến trước tháng 1/1953), ông Nhu là đường dây liên lạc duy nhất của CIA trong các hoạt động chính trị tại Sài Gòn. Và xuyên suốt quá trình 9 năm hợp tác giữa CIA với chính quyền Sài Gòn, ông Nhu luôn đóng vai trò cầu nối của mọi liên lạc giữa CIA với người anh trai.


Anh em Diệm - Nhu.

Mặc dù chẳng có thành tích gì nổi bật, nhưng Ngô Đình Diệm vẫn là chọn lựa số 1 của các quan thầy Mỹ - Pháp, và sau đó trở thành thành trì chống Cộng của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, vì Ngô Đình Diệm có một số đặc điểm hiếm có vào thời đó: tinh thần chống Cộng, theo đạo Thiên Chúa và biết tiếng Anh. Tuy nhiên, sự chọn lựa này cũng đã tạo ra mầm mống chống đối trong hàng ngũ các tướng tá xuất thân từ lò đào tạo của Pháp và cả các giáo phái miền Nam, như Cao Đài, Hòa Hảo và lực lượng Bình Xuyên của tướng Bảy Viễn...
Từ cuối năm 1953 đến trước khi Ngô Đình Diệm lên làm Thủ tướng, Ngô Đình Nhu tiếp tục là cầu nối liên lạc giữa CIA với Diệm. Thông qua Nhu, CIA đã tìm hiểu nắm bắt được những ý định của Ngô Đình Diệm cũng như các tham vọng tương lai của Nhu. Nhu đã thẳng thắn tuyên bố với CIA rằng, ông ta có khả năng "cầm lái" anh mình.
Thực tế, Nhu vừa là người thân, vừa là cố vấn thân cận nhất, luôn luôn ở sát cạnh Diệm để kịp thời đưa ra những quyết sách theo đúng ý đồ của mình. CIA nhận định: muốn điều khiển Diệm tất phải tác động thông qua Nhu. Điều này cộng với tài đa mưu túc trí và lòng nhiệt tình cộng tác đã giúp Nhu trở thành trọng tâm trong mọi kế hoạch hành động bí mật của CIA tại Việt Nam.
2. Vài nét về trùm tình báo Edward Lansdale
CIA có 2 cơ sở hoạt động tại Sài Gòn, bao gồm: Trạm CIA, thường gọi là trạm chính quy, đảm nhiệm các hoạt động chính của CIA; và trạm thứ hai, còn gọi là "trạm Lansdale", bao gồm các cố vấn, nhân viên ngoại giao hoạt động ngầm từ bên trong Tòa đại sứ Mỹ, dưới quyền chỉ huy của trùm tình báo Edward Lansdale.
Tháng 4/1954, Paul Harwood được điều động từ Manila, Philippines đến Sài Gòn, hoạt động bên trong Trạm CIA, hỗ trợ Trưởng trạm Emmett McCarthy trong việc tiếp cận anh em Diệm - Nhu. Hai  tháng sau (6/1954), Đại tá Edward Lansdale cũng xuất hiện tại Tòa đại sứ Mỹ với chức vụ Tùy  viên Không quân. Thực chất vai trò của 2 ông này là cố vấn cho anh em Diệm - Nhu, và cả 2 đã hoạt động như một cặp bài trùng cho đến khi Harwood về nước tháng 4/1956.


Chuyên gia đảo chính Lansdale, năm 1963.

Trước đây, Lansdale từng đến Việt Nam vào năm 1953 trong thành phần phái bộ quân sự Mỹ do tướng John O'Daniel dẫn đầu hỗ trợ Pháp đang ngày càng thất thế. Một điều thú vị là Lansdale không phải là người của CIA.
Ông ta xuất thân từ OSS (Văn phòng phục vụ chiến lược, tiền thân của CIA), nhưng hoạt động tình báo khắp nơi theo sự điều động của Chính phủ Mỹ. Ông ta từng được Washington giao 5 triệu USD bay sang Philippines hỗ trợ chính quyền Elpidio Quirino chống lại lực lượng Hukbalahap (quân đội của đảng Cộng sản Philippines thời đó). Sau đó, Lansdale kết thân với Ramon Magsaysay và giúp ông này giành thắng lợi trước Quirino trong cuộc bầu cử cuối năm 1953 và lên làm Tổng thống Philippines.
Đến Sài Gòn lần này, Lansdale hoạt động dưới vỏ bọc Tùy viên Không quân bên trong Tòa đại sứ Mỹ. Thực chất, Đại tá Lansdale chính là "trưởng trạm 2" của CIA tại Sài Gòn, có nhiệm vụ giúp Ngô Đình Diệm xây dựng nhà nước "dân chủ" trên vùng lãnh thổ từ vĩ tuyến 17 trở vào làm thành trì chống Cộng tại Đông Nam Á. Nhờ kinh nghiệm và thành công tại Philippines, Lansdale tự tin rằng ông ta đã nắm trong tay "bí quyết" đánh bại các cuộc nổi dậy của quân cách mạng.
Vì thế tháng 7/1954, Lansdale mạnh miệng tuyên bố trước Giám đốc CIA Allen Dulles rằng, mục tiêu của ông ta không gì khác hơn là xây dựng một "nền tảng chính trị" ở Đông Dương, nếu thành công, sẽ "giúp CIA nắm quyền kiểm soát chính phủ và thay đổi toàn bộ bầu không khí chính trị" tại đây.
Thực tế sau năm đầu của chính quyền Ngô Đình Diệm, Lansdale vẫn chưa thể làm được như đã tuyên bố. Mặc dù Lansdale luôn cố gắng tạo ảnh hưởng đối với Diệm để thuận tiện việc triển khai các chương trình, chiến lược của Washington tại miền Nam Việt Nam, nhưng tính thụ động, ngoan cố và chính sách cai trị độc tài, phản dân chủ của Ngô Đình Diệm cộng với sự tham nhũng, lộng quyền của Nhu đã không chỉ làm hỏng nhiều kế hoạch của Lansdale mà rốt cuộc còn làm sụp đổ chế độ cộng hòa mà CIA đã cất công hỗ trợ xây dựng.
3. CIA và cuộc di dân lịch sử 1954-1955
Tình hình rối loạn trong những tuần lễ đầu sau khi Diệm lên nắm quyền và nhất là sau khi Hiệp định Geneva được ký kết (tháng 7/1954) đặt chính quyền non trẻ của ông ta trong tình trạng bị đe dọa triền miên. Chúng cũng là nỗi ám ảnh thường trực đối với các trạm CIA, cho nên CIA luôn phải tìm cách củng cố nền tảng chính trị cho Diệm - Nhu, cả ở trong và ngoài vĩ tuyến 17.
Không chỉ lo ngại bị miền Bắc "thôn tính", CIA còn lo Diệm có thể dễ dàng bị các thế lực chống đối trong Nam như tướng Nguyễn Văn Hinh, bác sĩ Phan Quang Đán thuộc phe đối lập... lật đổ, trong khi chính quyền Ngô Đình Diệm vẫn chưa thu phục được lòng dân, nhất là vùng nông thôn.
Các điều khoản trong Hiệp định Geneva đưa ra 2 thời hạn để các bên thực thi: thứ nhất là thời hạn 300 ngày để những người Việt muốn theo bên nào thì di cư theo ý nguyện, lấy vĩ tuyến 17 và dòng sông Bến Hải làm ranh giới tạm chia đôi đất nước Việt Nam; và thời hạn thứ 2 là vào tháng 7/1956 sẽ tổ chức tổng tuyển cử thống nhất trên toàn quốc.

Từ thực tế phải thực thi các điều khoản Hiệp định Geneva, Lansdale tính toán rằng Diệm cần xây dựng một cơ sở ủng hộ vững chắc trong dân chúng. Cuộc di dân từ Bắc vào Nam là tối quan trọng, đòi hỏi Diệm phải chuẩn bị 2 giải pháp cùng lúc: thứ nhất là giải quyết tái định cư cho người di cư; và thứ hai là thiết lập nền tảng ủng hộ ông ta ở vùng nông thôn.
Để chuẩn bị, Thủ tướng Diệm đã lập ra một "ủy ban liên bộ về người tị nạn". Nhưng ủy ban này hầu như không hoạt động gì, cho nên Lansdale yêu cầu Diệm phải thay một ủy ban mới có năng lực hơn để thực hiện công tác di dân như ý muốn của CIA.
Nhưng Lansdale lại lo ngại sẽ có hàng ngàn người không chịu rời miền Bắc, và như thế kế hoạch di dân sẽ thất bại. Diệm theo đạo Thiên Chúa, cho nên thành phần di cư được nhắm đến chủ yếu là những người theo đạo Thiên Chúa.
Thế là Lansdale cho triển khai một chiến dịch mang tên "Đường đến Tự do" (The Passage to Freedom) do nhóm điệp viên cài cắm ở lại miền Bắc sau Hiệp định Geneva thực hiện nhằm xúi giục người theo đạo Thiên Chúa di cư. Lợi dụng đức tin của giáo dân, nhóm của Lansdale đã tung tin đồn rằng "Đức Mẹ Maria đang đi vào miền Nam".
Thời điểm đó (tháng 8/1954), Việt Minh chưa vào tiếp quản Hà Nội. Lợi dụng điểm này, các điệp viên của Lansdale còn rải truyền đơn phao tin đồn thất thiệt bôi xấu Việt Minh để kích động dòng người di cư đông hơn. Như vậy, tính đến tháng 5/1955 (kết thúc đợt di cư), đã có hơn 900.000 người từ miền Bắc vào Nam sinh sống, tạo nên một làn sóng di cư chưa từng có trong lịch sử.
4. CIA và các giáo phái
Tháng 9/1954, chương trình di cư đang tiếp diễn. Diệm muốn lợi dụng CIA để lôi kéo các giáo phái chống Việt Minh là Cao Đài ở vùng Đông Nam Bộ và Hòa Hảo ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, người Pháp đã lên kế hoạch lôi kéo các giáo phái bằng cách cung cấp tiền bạc và phương tiện vận chuyển để chống lại Việt Minh.


Lansdale (bên trái) trong lần tiếp xúc với Trịnh Minh Thế (dấu X) tháng 9/1954 tại núi Bà Đen, Tây Ninh.

Sau Hiệp định Geneva, các giáo phái quay ra chống lại chính quyền mới của Ngô Đình Diệm. Nhưng việc tài trợ và cung cấp khí tài của người Pháp không kéo dài được lâu nên không còn thu phục được thủ lĩnh các giáo phái nữa. Nếu Diệm có thể thay thế người Pháp cung cấp khí tài và tiền bạc, các giáo phái sẽ theo Diệm. Nhưng Diệm không có tiền.

Đây là cơ sở để CIA ra tay giúp Diệm lôi kéo các giáo phái. Thật ra, ngay trong những tuần lễ đầu Diệm làm Thủ tướng (tháng 7/1954), Paul Harwood đã gửi hàng triệu đồng tiền Đông Dương cho Dinh Gia Long để sử dụng tùy ý. Tháng 9/1954, số tiền đó đã hết, Diệm gặp Lansdale để... xin thêm.
Tướng chỉ huy quân đội Cao Đài Trịnh Minh Thế từ lâu đã là mối liên lạc của Ngô Đình Nhu, ủng hộ Diệm thì ít mà chống Pháp thì nhiều. Và đây là đối tượng có thể lợi dụng cho việc thanh lọc thành phần thân Pháp trong quân đội quốc gia. Sau vài cuộc thương lượng giữa Nhu và tướng Thế, theo yêu cầu của Diệm, Lansdale trao cho Diệm vài ngàn USD để Nhu dùng "lót tay" tướng Thế.
Hai ngày sau, Lansdale được mời đến đại bản doanh của tướng Thế trên núi Bà Đen, Tây Ninh. Tại đó, tướng Thế cam kết ủng hộ chính quyền Diệm, không đơn phương hành động chống Pháp và thả tù nhân Pháp. Đại sứ Heath đã yêu cầu CIA không thể công khai "giao dịch" với tướng Thế mà phải tài trợ bí mật cho Diệm để Diệm trao cho Thế. Lý do, lúc đó người Pháp vẫn xem Trịnh Minh Thế là... tội phạm.
Sau khi thu phục được tướng Thế, CIA tiếp tục thúc đẩy Diệm thực hiện cải cách chính trị. Thành phần nội các lúc đó chỉ bao gồm toàn anh em, bà con thân thích của Thủ tướng Diệm và ông cố vấn Nhu.
Với sự vận động của người Pháp, Bộ trưởng Ngoại giao John Foster Dulles muốn nội các Diệm phải mở rộng bao gồm cả các thành phần giáo phái. Diệm phản đối lối ngoại giao "sóng đôi" Mỹ - Pháp đó, cho nên Tổng hành dinh CIA ra lệnh cho Trạm CIA tại Sài Gòn can thiệp tháo gỡ bế tắc nhằm tránh sự đối đầu căng thẳng có thể dẫn đến việc mất chỗ đứng tại miền Nam Việt Nam. Từ tác động của CIA thông qua Paul Harwood, Nhu tìm cách thuyết phục Diệm thay đổi nhưng thất bại do Diệm vẫn bảo lưu quan điểm, không lay chuyển.
Ngày 20/9/1954, Nhu triệu tập Harwood đến Dinh Gia Long để trực tiếp thuyết minh vấn đề với Diệm, nhưng ý chí sắt đá của Diệm suýt làm tan vỡ mọi nỗ lực trong hơn 2 tiếng đồng hồ của Harwood. Cuối cùng, trước sự kiên trì của Harwood, Diệm bất đắc dĩ phải đồng ý cải tổ nội các theo yêu cầu của CIA.
Tuy nhiên, việc cải tổ nội các chỉ mang lại kết quả tồi tệ hơn; thành phần các giáo phái tham gia nội các đều không phản ánh sự trung thành đối với chính phủ đương quyền. Lansdale hoảng hốt, chỉ ra đây là trò lừa dối của người Pháp nhằm "phá cho hôi". Ông ta liền báo cáo ngay với Ngoại trưởng Dulles về diễn biến vừa xảy ra và yêu cầu Dulles tác động để Bảo Đại phản đối sự can thiệp của người Pháp. Qua sự việc này cho thấy CIA đóng vai trò rất lớn trong các quan hệ giữa Mỹ với chính quyền Ngô Đình Diệm ngay từ buổi đầu

Sự hợp tác tình báo giữa CIA với anh em họ Ngô trong hoạt động thu thập thông tin tình báo chống phá cách mạng miền Bắc và “Việt Cộng” trong Nam đã manh nha từ những tháng đầu của chế độ Ngô Đình Diệm (11/1954). Tuy vậy, các nỗ lực hợp tác ban đầu không đi đến đâu do CIA còn phải lo hỗ trợ anh em Diệm - Nhu đối phó với các thế lực chống đối.
Kể từ cuối năm 1956, sau khi Paul Harwood (Trạm CIA) và Ed Lansdale (trạm 2 bên trong Tòa đại sứ) rời Việt Nam, hoạt động của CIA tại Việt Nam cũng thay đổi theo hướng tăng cường thu thập tin tình báo chống Cộng. Từ đó, hợp tác tình báo giữa CIA và anh em Diệm - Nhu cũng được hâm nóng và đẩy mạnh hơn trước.
Nỗ lực hợp tác tình báo ban đầu giữa CIA và SEPES
Cho đến cuối năm 1954, các kết quả hợp tác từ mối quan hệ giữa Mỹ với chính quyền Ngô Đình Diệm chủ yếu xoay quanh việc xác lập ảnh hưởng của CIA và giúp Diệm ổn định chính quyền ở miền Nam. Việc thu thập tin tình báo về miền Bắc vẫn chưa mang lại kết quả gì đáng kể. Hầu như Diệm - Nhu chẳng nắm được mấy thông tin về miền Bắc. Do vậy, Trưởng trạm CIA McCarthy muốn tìm cách giúp Diệm thiết lập một cơ quan tình báo đối ngoại nhằm chống phá miền Bắc.
McCarthy nhận thấy cần phải tiếp cận người Việt Nam thông qua Đại sứ Heath hơn là sử dụng kênh Harwood-Nhu. Heath là một người có tính độc lập cao, từng dự liệu về tương lai hợp tác khó khăn giữa phái bộ Mỹ với anh em Diệm - Nhu. Harwood cố gắng hỗ trợ bằng cách xúi Diệm đến "nhờ vả" Tòa đại sứ.
Tháng 11/1954, Diệm đến Tòa đại sứ, có Lansdale đi kèm. Sau khi "thăm dò" ý tứ đối phương, cuối cùng giữa Diệm và Đại sứ Heath cũng nhất trí được kế hoạch hợp tác liên kết tình báo. Vấn đề còn lại là đặt trụ sở của liên minh tình báo này ở đâu, bên trong bản doanh quân đội hay trong Bộ Quốc phòng.
Rốt cuộc, Viện Nghiên cứu chính trị xã hội (SEPES) - bộ phận tình báo thuộc đảng Cần lao của Nhu do Trần Kim Tuyến lãnh đạo - được chọn đứng ra liên kết với CIA. Tuyến không có kinh nghiệm tình báo, nhưng người phó của ông ta tên là Hoàng Ngọc Diệp thì rất rành và sẵn sàng hợp tác trong liên minh với CIA.
Với sự hỗ trợ của CIA, Diệp bắt đầu rà lại toàn bộ số điệp viên cộng tác với CIA còn nằm lại ở miền Bắc và cả những thành phần trong Nam có thể trở về Bắc giả làm "kẻ đào thoát" để cài cắm, nằm vùng.
Mặc dù có liên minh CIA-SEPES, Diệm vẫn tiếp tục phụ thuộc vào CIA để thu thập tin tình báo và CIA vẫn luôn cố gắng giúp chính phủ Diệm xây dựng năng lực tình báo quốc gia riêng. Cơ quan Tình báo an ninh đối nội thời Pháp thuộc là Sureté được đổi tên lại là Cục Cảnh sát đặc biệt (PSB) vẫn còn lưu trữ hồ sơ về Việt Minh và thành phần cộng tác trong Nam, vì thế CIA khai thác PSB để theo dõi, thu thập thông tin về Việt Cộng.
PSB đã tỏ ra hợp tác rất tích cực. Tuy nhiên, nỗ lực liên kết tình báo nhằm xây dựng một cơ quan tình báo độc lập cho chính quyền Diệm đã không đi đến đâu, sớm bị lãng quên khi những vấn đề bất ổn với các giáo phái tiếp tục bùng phát vào những tháng đầu năm 1955. Lansdale và Harwood do quá bận rộn giải quyết vấn đề giáo phái nên nỗ lực thu thập tin tức tình báo về miền Bắc trong giai đoạn này đành bị gác lại.
Trò hề trưng cầu dân ý đưa Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống miền Nam
Sử gia Thomas L. Ahern Jr đã viết rằng không có sự trợ giúp của CIA thông qua cặp bài trùng Lansdale-Harwood thì chế độ Ngô Đình Diệm khó trụ nổi quá 6 tháng đầu tiên. CIA (cụ thể là Lansdale và Harwood) đã giúp Diệm từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ, hết thu phục các giáo phái (đặc biệt là Cao Đài Tây Ninh) rồi đến đập tan âm mưu đảo chính của tướng Nguyễn Văn Hinh, chỉ huy quân đội thân Pháp vào cuối năm 1954.


Ngồi hàng đầu, trái qua: tướng Nguyễn Văn Hinh, tướng Lê Văn Tỵ, Ed Lansdale và phụ tá Joe Redick.

Nhưng cuộc "tảo thanh" các giáo phái và lực lượng Bình Xuyên diễn ra cuối tháng 4/1955 mới là vụ căng thẳng nhất trong giai đoạn đầu bình ổn chính quyền Ngô Đình Diệm. Đó cũng là cao điểm hợp tác giữa CIA với anh em Diệm - Nhu. Nhờ sự hỗ trợ đắc lực của Lansdale và Harwood, anh em Diệm - Nhu đã dẹp tan được "mối họa" Bình Xuyên, buộc Bảy Viễn phải rút lực lượng về mật khu Rừng Sác cố thủ.
Không những thế, cái gương Bình Xuyên còn có tác dụng răn đe, khiến cho lực lượng Hòa Hảo ở miền Tây phải co vòi, rụt cổ, trong khi phái Cao Đài đã về theo Diệm từ sau cuộc thương thảo của Lansdale với tướng Trịnh Minh Thế mùa thu năm 1954. Tháng 7/1955, thông qua sự trung gian thương lượng của Lansdale, các lực lượng quân sự còn lại của Cao Đài, Hòa Hảo đã đồng ý sáp nhập vào quân đội quốc gia.
Sau những biến động đó, Diệm bắt đầu tính đến chuyện phế truất Vua Bảo Đại nhằm hợp thức hóa chế độ cầm quyền của ông ta từ vĩ tuyến 17 trở vào để "né" Hiệp định Geneva (tổ chức tổng tuyển cử vào tháng 7/1956). Washington không đồng tình kế hoạch của Diệm vì cho rằng thời cơ chưa đến, và không đủ cơ sở pháp lý cho việc đó. Thế nhưng, Lansdale lại là người đã giúp Diệm thực hiện ý đồ bằng cách hiến kế Diệm tiến hành trò hề trưng cầu dân ý ngày 23/10/1955, với kết quả có tới 98% phiếu ủng hộ Diệm lên thay cựu hoàng Bảo Đại.
Sau đó 3 ngày (26/10), Diệm tự phong làm Tổng thống, truất phế Vua Bảo Đại, khai sinh nền Đệ nhất Cộng hòa. Điều nực cười ở đây là tổng số phiếu đã kiểm lại nhiều hơn tổng số cử tri đăng ký đến 150.000 phiếu (!?). Trạm CIA, Tòa đại sứ, Tổng hành dinh CIA, Nhà Trắng và Bộ Ngoại giao, tất cả đều biết việc gì đã xảy ra đằng sau màn kịch khôi hài này nhưng đều coi như không hay biết gì cả.
Sau khi tướng Trịnh Minh Thế chết (cuối tháng 4/1955), ảnh hưởng của Lansdale và Harwood đối với anh em Diệm - Nhu cũng suy yếu dần. Mặc dù Lansdale và Harwood vẫn làm cố vấn cho Diệm - Nhu cho đến hết kỳ nhiệm vụ, nhưng quan hệ giữa đôi bên đã có phần lạnh nhạt hơn và không ít lần tranh cãi, mâu thuẫn gay gắt.
Tháng 4/1956, Harwood mãn nhiệm vụ rời Sài Gòn. Tháng 12/1956, đến lượt Lansdale cũng mãn nhiệm trở về Washington làm việc trong Bộ Quốc phòng. Trạm CIA do Lansdale chỉ huy bên trong Tòa đại sứ cũng ngưng hoạt động từ đó, và CIA chỉ còn một trạm duy nhất tại Sài Gòn.

Đầu năm 1957, Trạm CIA cũng thay ngôi đổi chủ, Nicholas Natsios đến thay thế John Anderton làm Trưởng trạm. Người được cử thay thế Lansdale và Harwood hỗ trợ Trưởng trạm Natsios liên lạc với anh em Diệm - Nhu là Douglas Blaufarb.
Cũng từ đó, Diệm không còn phụ thuộc nhiều vào sự giúp đỡ của CIA trong việc quan hệ với các giáo phái cũng như trong liên hệ với Washington. Ngược lại, CIA sẽ bắt đầu những năm tháng hợp tác đầy khó khăn với anh em Diệm - Nhu. Và thất bại cứ nối tiếp thất bại làm đau đầu nhiều bộ óc được xem là cừ khôi nhất trong làng tình báo Mỹ lúc bấy giờ.
Đi tìm một "CIA" cho miền Nam Việt Nam
Cho đến cuối năm 1957, công cụ hợp tác tình báo duy nhất giữa anh em Diệm - Nhu với CIA vẫn là SEPES. Nhưng SEPES tỏ ra không phải là cơ quan tình báo chuyên nghiệp, và chỉ mang dáng vẻ của một cơ quan phản gián, phản ánh nỗi ám ảnh về an ninh nội bộ của anh em Diệm - Nhu.
Phản gián chống mạng lưới tình báo nằm vùng siêu đẳng của “Việt Cộng” chỉ là một mảng nhỏ, trong khi các hoạt động an ninh khác, như thanh lọc lý lịch của các thành viên mới gia nhập đảng Cần lao được đặt nặng hơn. Sự lệch lạc trong hoạt động tình báo này cộng với thái độ thờ ơ của Nhu và cơ quan SEPES của ông ta càng làm giảm khả năng tiếp cận của CIA đối với các chiến dịch chống Cộng ở miền Bắc lẫn miền Nam.
Chỉ có 29 trong tổng số 219 nhân viên SEPES được bố trí cho Cục Tác chiến ngoài lãnh thổ (EOB), và chỉ có 2 trong số này được Darwin Curtis, liên lạc viên của CIA trong tổ chức SEPES đánh giá là "đạt trình độ chuyên nghiệp".
Mặc dù vậy, CIA vẫn phụ thuộc khá nhiều vào SEPES để thu thập tin tình báo về miền Bắc, chủ yếu là khai thác qua trạm thẩm vấn người tị nạn ở Quảng Trị. Đó có thể được xem là thất bại thứ hai của CIA trong quá trình hợp tác tình báo với anh em Diệm - Nhu, sau thất bại đầu tiên năm 1954.


Trưởng trạm CIA Nicholas Natsios (trái) và Ngô Đình Diệm.

Natsios rất muốn chấm dứt tình trạng lệ thuộc của CIA vào SEPES trong các chiến dịch hợp tác. Tháng 12/1957, CIA bắt đầu hỗ trợ một chương trình quấy phá các cơ sở duyên hải miền Bắc. Thông qua Trần Trung Dung, Natsios nắm được ý định của Diệm là sẽ triển khai thu thập tin tình báo ở giai đoạn sau của chiến dịch, Natsios chớp thời cơ đề xuất với Diệm triển khai một chương trình riêng, tuyển mộ toàn bộ nhân sự tình báo mới.
Một lần nữa, Natsios lại phải thất vọng vì Diệm chỉ đồng ý với kế hoạch đó sau khi đã phái Dung đi tham khảo ý kiến Nhu. Natsios đành phải chấp nhận vai trò can thiệp từ xa của Nhu, để cho Đại tá Lê Quang Tung (người của Diệm) điều hành chương trình này. Điều ai cũng biết rằng Tung là tay chân thân tín của Diệm và ông ta cũng không hề có ý định làm vui lòng người Mỹ.
Như phần trên đã nói, bên cạnh SEPES còn có PSB là cơ quan tình báo nội địa thuộc Sở Cảnh sát quốc gia, tiền thân là Cục An ninh Sureté của Pháp. PSB tỏ ra hợp tác tích cực hơn SEPES, nhưng mọi nỗ lực rồi cũng chẳng giúp CIA thâm nhập được vào các tổ chức của cách mạng miền Nam. Trong giai đoạn Diệm tăng cường các hoạt động đàn áp dân chúng, ban hành Luật 10/59, CIA đã gần như đứng ngoài mọi hoạt động thám báo của Diệm - Nhu. Những thông tin thu thập được thông qua PSB hầu không sử dụng được.
William Colby đến Sài Gòn làm Phó trạm CIA từ tháng 2/1959. Đến tháng 6/1960, Colby lên thay Natsios làm Trưởng trạm CIA. Ngay từ đầu, Colby đã ấp ủ một định hướng mới cho CIA trong việc hợp tác với anh em Diệm - Nhu. Với sự đồng tình của Tổng hành dinh CIA, Colby khởi xướng một chương trình khôi phục hoàn toàn các quan hệ hợp tác với Dinh Gia Long đã bị phai nhạt từ cuối năm 1956. Là một chuyên gia giỏi về tâm lý chiến, Colby đã áp dụng chiến thuật "mưa dầm thấm lâu" để thu phục nhân tâm anh em Diệm - Nhu.
Có thể nói, từ khi Colby đến, quan hệ giữa CIA với anh em Diệm - Nhu đã sôi động trở lại với hàng loạt kiến nghị, chương trình củng cố quan hệ và chấn chỉnh các chương trình tâm lý chiến để đạt mục tiêu bình định nông thôn miền Nam. Trong các nỗ lực này, việc cơ cấu lại hoạt động tình báo là một yêu cầu quan trọng.
Sau 6 năm ì ạch và thụ động, rốt cuộc Dinh Gia Long cũng yêu cầu Trạm CIA hiến kế làm cách nào để tổ chức một cơ quan tình báo tương tự như CIA tại miền Nam Việt Nam. Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Đình Thuần cũng đích thân nhờ Colby cố vấn cho việc tìm kiếm một ứng cử viên đứng đầu cơ quan này. Colby cấp tốc xin ý kiến Tổng hành dinh CIA và được bật đèn xanh.
Tuy nhiên, có một ý kiến phản biện cho rằng mô hình tương tự đã thất bại ở nhiều nơi khác thuộc thế giới thứ ba, bởi lẽ đơn giản là các chính quyền này sau khi đã được CIA giúp xây dựng xong bộ máy tình báo riêng sẽ quay sang tìm cách ngăn chặn CIA can thiệp vào các hoạt động tình báo của mình.
Colby đề xuất mô hình "cơ quan điều phối tình báo" nhằm tập trung hoạt động các cơ quan tình báo miền Nam Việt Nam về một mối mà không cần lập thêm một đơn vị tình báo nữa. Colby cũng nghĩ rằng cơ quan này khi cần có thể thu thập tin tình báo và bảo vệ bí mật các nguồn thông tin đối với các cơ quan khác.
Tổng hành dinh và Colby đều nhất trí với đề xuất giao cho Ngô Đình Luyện (em trai của Diệm và Nhu) làm giám đốc cơ quan này, vì thêm một "người trong gia đình Diệm - Nhu" điều hành công việc sẽ giúp CIA che mắt được Giám đốc SEPES Trần Kim Tuyến và tránh được những quấy phá của ông này.
Lập cơ quan tình báo xong, coi như Colby thành công bước đầu trong việc tạo điều kiện thuận lợi để tái xác lập ảnh hưởng đối với anh em Diệm - Nhu nhằm thúc đẩy các chương trình, chiến lược chống “Việt Cộng” ở miền Nam và phá hoại miền Bắc. 
Nhưng, sự đời không bao giờ suôn sẻ. Mặc dù người Mỹ đã có nhiều điều chỉnh trong chính sách hợp tác với Sài Gòn, nhưng những nhược điểm cố hữu của anh em Diệm - Nhu và chế độ của họ đã không thể sửa chữa được nữa, khiến họ ngày càng đi chệch mục tiêu và chiến lược của quan thầy Mỹ. Đây chính là lý do dẫn đến cuộc "thay ngựa giữa dòng" tháng 11/1963

Lucien Conein.


Hợp tác với người Mỹ nói chung giống y như câu nói dân gian “chơi dao có ngày đứt tay”; thuận theo ý quan thầy thì sống, nghịch ý thì vong mạng. Khi anh em Diệm – Nhu ngày càng theo đuổi các chính sách độc tài gia đình trị, nhận trợ giúp về mọi mặt mà không thực hiện đúng ý đồ của quan thấy Mỹ, số phận của họ coi như đã được an bài, chỉ chờ “thời cơ” hành quyết…
Vụ đảo chính bất thành tháng 11/1960
Mối quan hệ giữa CIA và các cơ sở khác của Mỹ với Diệm - Nhu ngày càng xấu đi sau thời Lansdale- Harwood. Năm 1958 - 1959, CIA liên tục phát hiện những trò tiểu xảo của Nhu và SEPES do Trần Kim Tuyến lãnh đạo nhắm vào các sĩ quan của Trạm. Đến tháng 7/1958, CIA đã có nhiều bằng chứng cho thấy chính quyền Diệm - Nhu đang chủ trương chống lại phái bộ Mỹ, kể cả các liên lạc viên CIA.
Trạm CIA tại Sài Gòn cho biết, trong một cuộc họp nội các Chính phủ vào đầu tháng 1/1959, Diệm đã cảnh giác các quan chức của mình về nguy cơ bị lật đổ "thậm chí bởi chính những người bạn viện trợ cho chúng ta", có ý ám chỉ người Mỹ, và căn dặn họ không nên tiết lộ các bí mật quốc gia hoặc các kế hoạch hành động mật.
Thái độ dè chừng, giữ khoảng cách như thế, cùng với việc Diệm ngày càng trở nên độc đoán, bảo thủ, khó tiếp cận và khó thuyết phục trong khi mục tiêu chống Cộng đang ngày càng gặp nhiều khó khăn đã khiến cho quan hệ ấy trở nên trầm trọng hơn. Và người Mỹ một lần nữa lại nghĩ đến nước cờ "thay ngựa giữa dòng".
Khoảng nửa cuối năm 1960, CIA bắt đầu đánh hơi được mầm mống nổi loạn chống Ngô Đình Diệm ở Sài Gòn ngày càng tăng. Tháng 9, CIA bắt đầu tập hợp thông tin về thành phần bất mãn trong hàng ngũ tướng tá quân đội.
Tháng 10, CIA cố gắng khai thác tướng Trần Văn Minh và các nguồn khác nhằm tìm kiếm thành phần tham gia đảo chính. George Carver, một sĩ quan CIA tại Trạm Sài Gòn, móc liên lạc với chính trị gia Hoàng Cơ Thụy (đảng Đại Việt) nhằm mở rộng nguồn thông tin.
Bất chấp những cố gắng "bắt mạch" nhưng CIA vẫn không nhận được dấu hiệu báo trước về vụ đảo chính ngày 11/11/1960 của nhóm quân nhân. Cũng như mọi người bình thường khác, Trạm CIA chỉ nhận biết tình hình đảo chính khi nghe thấy tiếng xe tăng chuyển động vào sáng sớm hôm 11/11, kèm theo đó là tiếng súng nổ vang rền hướng vào Dinh Gia Long.
George Carver cố gắng liên lạc điện thoại với Hoàng Cơ Thụy và được mời đến gặp một nhóm chính khách dân sự đang hy vọng được quân đội đưa lên nắm chính quyền thay Ngô Đình Diệm.
Được phép của Colby, Carver lái xe đến nhà Thụy. Carver mang theo một sứ mệnh là gây sức ép buộc nhóm đảo chính không được tấn công Dinh Gia Long như đã tuyên bố. Carver còn ra sức thuyết phục nhóm Hoàng Cơ Thụy thương lượng với Diệm để tìm giải pháp chính trị.
Ở một mũi khác, Russ Miller - sĩ quan CIA phụ trách các chiến dịch phá hoại miền Bắc - cũng lái xe Jeep đến Dinh Gia Long cùng với phiên dịch Dick Bender. Súng đã ngừng nổ, hai bên đang ở thế giằng co.
Cánh báo chí chen lấn ở trước Dinh để nghe ngóng tin tức. Miller không hơn gì họ, mù tịt về kẻ chủ mưu. Người duy nhất Miller có thể khai thác tin tức là bác sĩ Phan Quang Đán - phát ngôn viên của phe đối lập - thì chỉ hẹn sẽ tổ chức một cuộc họp báo tại Tổng hành dinh Bộ Tổng tham mưu liên quân (JGS) gần sân bay Tân Sơn Nhất. Miller lại phóng xe Jeep đến sân bay.
Miller được lệnh của Trạm CIA tránh can dự "cố vấn" này nọ mà chỉ việc lặng lẽ theo dõi diễn biến rồi báo cáo về Trạm. Miller tự giới thiệu mình là người từ Tòa đại sứ Mỹ đến. Gặp Đại tá không quân Nguyễn Chánh Thi, Miller lại có được kênh cập nhật thông tin khá đầy đủ và liên tục về tình hình đảo chính.
Trong khi đó, biết được CIA đang phái người theo dõi sự việc ở cả 2 chiến tuyến, Đại sứ Elbridge Durbrow vào cuộc, tận dụng phương tiện làm việc của Trưởng trạm Colby để theo dõi báo cáo từ Carver và Miller, đồng thời liên lạc điện thoại với Dinh Gia Long.


Đại sứ Henry Cabot Lodge.

Nắm được chủ trương chơi "hàng hai" đối với sinh mệnh chế độ Diệm - Nhu của Bộ Ngoại giao Mỹ, Durbrow không trực tiếp bày tỏ sự ủng hộ nào với Diệm - Nhu mà chỉ đưa ra lời khuyên ngài Tổng thống Việt Nam Cộng hòa nên chấp nhận thương lượng với nhóm quân nhân. Chính sự can thiệp này của đại sứ Durbrow đã góp phần giúp cho chính quyền Ngô Đình Diệm thoát nạn.
Cánh quân nhân đảo chính bắt đầu phân hóa giữa tấn công quân sự với việc thương lượng một cách êm thấm. Và họ dễ dàng bị tác động bởi sức ép của người Mỹ. Tuy vậy, nhóm quân nhân vẫn trong tư thế sẵn sàng tấn công trong khi cuộc thương lượng kéo dài suốt ngày 11 cho đến tận khuya, rạng sáng ngày 12/11.
Diệm có vẻ chấp nhận một số nhượng bộ, nhưng thực chất ông ta đang dùng cuộc thương lượng để "câu giờ" chờ quân tiếp viện đến "cứu giá" của Đại tá Trần Thiện Khiêm. Russ Miller thông báo cho Đại tá Thi biết quân tiếp viện của Khiêm đang đến. Thi hiểu như vậy là trò chơi đã kết thúc, đành kéo quân đi.
Sau vụ đảo chính hụt, nhân vật chính trị số 1 Hoàng Cơ Thụy đã phải xin tị nạn trong Tòa đại sứ Mỹ và được Mỹ đưa sang Philippines rồi chạy trốn sang tận bên Nhật Bản. Riêng Carver, do bị Trần Kim Tuyến phát hiện có liên hệ với nhóm đảo chính nên bị chính quyền Diệm - Nhu phản đối quyết liệt, cuối cùng phải rời khỏi Sài Gòn. Chỉ có Miller và Lucien Conein bình an. Từ vụ việc này, giữa anh em Diệm - Nhu và phái bộ Mỹ, trong đó có Trạm CIA, càng mất tin tưởng nhau hơn.

Ngày định mệnh
Kể từ sau vụ đảo chính đó, Diệm - Nhu ngày càng gây mất lòng tin nơi người Mỹ. Tổ chức tình báo Trung ương (CIO) ra đời từ giữa năm 1960 nhưng đến tháng 5/1962 mới được Diệm ký lệnh thành lập chính thức. Đã vậy, các hoạt động thu thập tin tình báo do PSB thực hiện vừa nghèo nàn lại còn "chỏi" nhau kịch liệt giữa phe của Trần Kim Tuyến và phe của CIA.
Tình hình này khiến cho Trưởng trạm CIA John Richardson nổi giận, than phiền thẳng thắn với Nhu. Chưa hết, sau vụ đảo chính tháng 11/1960 và thêm một vụ đánh bom Dinh Gia Long vào tháng 2/1962, Nhu quy trách nhiệm cho người Mỹ nên càng tỏ thái độ chống Mỹ mạnh hơn. Trước thái độ chống Mỹ của Nhu, Trạm CIA tăng cường các mối quan hệ với phe đối lập.
Mùa xuân 1963, CIA hầu như có mặt khắp mọi ngõ ngách xã hội miền Nam Việt Nam, liên hệ với tất cả các phe, nhóm chống Diệm - Nhu. Giữa năm 1963, tình hình diễn biến ngày càng xấu. Phái bộ Mỹ phản đối quyết liệt chính sách đàn áp Phật giáo của chính quyền Sài Gòn.
Cuối tháng 6, CIA bắt đầu "ngửi" thấy "hơi hám" của một kế hoạch đảo chính mới. Lần này không chỉ có một mà có tới nhiều nhóm cùng muốn đảo chính. Các nguồn thông tin của CIA đã xác định được nhóm thứ nhất có Trần Kim Tuyến tham gia.
Nhóm thứ 2 là các tướng lĩnh quân đội. Kỳ lễ mừng ngày Quốc khánh Hoa Kỳ ngày 4/7/1963, Tòa đại sứ Mỹ tổ chức tiệc chiêu đãi, có mời tất cả các tướng tá quân đội Sài Gòn. Diệm cho phép các tướng thân tín của mình tham dự. Lucien Conein, người từng nhiều năm làm việc với Lansdale trong Tòa đại sứ, giờ đây trở thành đầu mối liên lạc chính giữa CIA với các tướng lĩnh quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Sau buổi tiệc, Conein đi theo các tướng tá đến một khách sạn ở khu trung tâm Sài Gòn để nhậu tiếp. Tại đây, Conein được tướng Trần Văn Đôn bật mí cho biết ông ta và một nhóm sĩ quan cao cấp dự định lật đổ Tổng thống Diệm. Thông tin này được Conein báo cáo với Richardson và Đại sứ Henry Cabot Lodge.
Riêng nhóm thứ 3, tướng Trần Văn Minh tiết lộ rằng, Ngô Đình Nhu âm mưu đảo chính Diệm để tiếm quyền! Nắm được thông tin Nhu muốn đảo chính, Trạm CIA bắt đầu xem xét liệu ông ta có thể thay thế anh mình lãnh đạo miền Nam Việt Nam hay không.
Phát hiện Nhu có quá nhiều trở ngại khó ngồi yên trên ghế Tổng thống, nên CIA quyết định gạt bỏ Nhu và chọn Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ lên thay nếu Diệm bị lật đổ (thực ra Phó tổng thống Thơ cũng tham gia lập kế hoạch đảo chính cho nhóm sĩ quan quân đội).
Tháng 8/1963, liên lạc giữa Trạm CIA và Tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn với Tổng hành dinh và Washington cũng như giữa CIA và Tòa đại sứ Mỹ với các tướng lĩnh diễn ra liên tục. Chọn lựa ban đầu (Nguyễn Ngọc Thơ) đã bị hủy bỏ.
Ngày 24/8, Washington quyết định phải loại bỏ Nhu. Ngày 25/8, William Colby, lúc này là Trưởng Phân cục Viễn Đông của CIA, đánh điện cho Richardson và Đại sứ Lodge yêu cầu phải ép Diệm trao quyền hành lại cho quân đội kiểm soát, đồng thời Diệm và Nhu sẽ được đưa về an trí ở Đà Lạt. Richardson và Lodge đều không đồng tình với cách giải quyết của Colby vì tính khả thi không cao lại tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn mới.
Richardson cho rằng không thể bàn bạc cơ chế đảo chính Diệm mà không tham khảo ý kiến các tướng; mặt khác Richardson muốn CIA cũng phải tham gia. Đại sứ Lodge cũng nhận được điện từ Washington cũng nghĩ nên để CIA đưa ra làm trung gian liên lạc với các tướng.
Liên lạc viên CIA Al Spera bay lên Pleiku gặp tướng Tư lệnh Vùng 2 Nguyễn Khánh trong khi Conein đi gặp tướng Khiêm ở Sài Gòn để tham khảo ý kiến. Từ đây, Conein trở thành kênh thông tin liên lạc chính giữa Chính phủ Mỹ với nhóm tướng lĩnh đảo chính.


Ngô Đình Diệm được phát hiện chết trong tư thế bị trói tay.

Đầu tháng 10/1963, Conein gặp tướng Trần Văn Đôn tại sân bay. Vài ngày sau, Conein gặp tướng Dương Văn Minh (Minh lớn) để tiếp tục thảo luận về cách người Mỹ có thể hỗ trợ quân đảo chính. Tướng Minh yêu cầu Mỹ tiếp tục cung cấp viện trợ (với mức 1,5 triệu USD/ngày) và không cản trở. Conein không hứa hẹn gì, chỉ bảo đảm ủng hộ đảo chính. Ngày 5/10, John Richardson bị triệu tập về nước, giao nhiệm vụ tại Trạm CIA lại cho David Smith. Lúc này, việc chuẩn bị đảo chính đang tăng tốc.
Ngoài nhóm tướng lĩnh, CIA còn đồng thời theo dõi nhóm đảo chính thứ 2 của Trần Kim Tuyến, có sự tham gia lãnh đạo của Đại tá tình báo “phía bên kia” Phạm Ngọc Thảo. Nhóm này không ấn định ngày thực hiện đảo chính (bất cứ khi nào có đủ vũ khí và phương tiện chiến đấu), nhưng nhóm của tướng Đôn thì ra thời hạn không chậm quá ngày 2/11.
Conein là đầu mối liên lạc của CIA với các tướng lĩnh, cho nên ông ta luôn sát cánh bên cạnh các tướng lĩnh để thảo luận những vấn đề cần thiết, truyền đạt, trao đổi những chủ trương, ý muốn của Washignton đối với cuộc đảo chính. Những ngày cuối tháng 10, tin đồn về đảo chính đã tràn ngập Sài Gòn, phần nhiều do Trạm CIA tung ra.
Sáng sớm ngày 1/11, Thiếu tướng Richard Stilwell, Tổng tư lệnh Phái bộ quân sự Mỹ tại Việt Nam (MACV), triệu tập Trưởng trạm CIA David Smith đến văn phòng để khuyến cáo về việc này. Khoảng 13h30, tướng Đôn đã cho người đến báo cho Conein biết đảo chính đang diễn ra và yêu cầu Conein có mặt tại Tổng hành dinh Bộ Tổng tham mưu liên quân (JGS), nơi đặt bản doanh chỉ huy đảo chính để theo dõi nắm tình hình.
Conein ở lại Tổng hành dinh JGS đến ngày hôm sau, liên tục báo cáo về Trạm CIA những thông tin về cuộc đảo chính mà ông ta được tướng Đôn và tướng Minh lớn cung cấp. 6h20' sáng hôm sau (2/11), Diệm đã gọi điện cho Minh lớn xin đầu hàng với điều kiện được ra đi an toàn cùng với gia đình.
Tướng Đôn và tướng Khiêm yêu cầu Conein cung cấp một máy bay, và Conein gọi điện về Tòa đại sứ. David Smith cho rằng có thể Pháp sẽ cho Diệm tị nạn và hứa sẽ đưa máy hay tới rước trong vòng 24 giờ. Conein trở lại tổng hành dinh JGS vào 11h trưa và bất ngờ nhận được tin anh em Diệm - Nhu đã bị hạ sát.
Với sự sụp đổ chế độ Diệm - Nhu, coi như chương đầu tiên trong toàn bộ lịch sử can thiệp của CIA vào miền Nam Việt Nam đã khép lại với một nỗi thất bại ê chề - đánh giá của sử gia Thomas L. Ahern Jr.
Được Tổng thống Eisenhower dành cho nhiều ưu tiên trong hoạt động tại miền Nam Việt Nam, CIA đã tiến hành một cuộc thử nghiệm xây dựng chế độ chống Cộng tại đây nhưng không thành công. Có khá nhiều bài học đằng sau thất bại này. Nhưng liệu CIA có rút ra được bài học nào không cho giai đoạn tiếp theo với các tướng lĩnh đã tham gia lật đổ Diệm?


(Còn nữa) Trương Hùng (lược dịch)

http://antg.cand.com.vn/vi-VN/hosomat/2009/4/69153.cand?Page=2